Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016

Môi trường quốc gia bị lợi ích nhóm “bắt làm con tin”

TS. Vũ Ngọc Hoàng

VNN - “Tôi nghe có doanh nghiệp làm thép hứa nếu để ô nhiễm họ sẽ “giao nộp” nhà máy cho cơ quan nhà nước. Tôi không hiểu thu nhà máy ấy về để làm gì và làm sao! Lời hứa này giống như những người làm thương mại đi bán nhà máy điện hạt nhân hứa sẽ bảo đảm an toàn cho nhà máy. Những lời hứa này chưa có gì bảo đảm cả.”, TS. Vũ Ngọc Hoàng chia sẻ.

Môi trường đang và sẽ liên quan trực tiếp ngày càng lớn đối với sự tồn vong và phát triển của các dân tộc. Tránh thảm họa môi trường là vấn đề lớn nhất của toàn cầu trong thế kỷ 21 này.

Lâu nay, với ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân văn thái quá, đã không ít người cho rằng môi trường là cái bên cạnh con người, bao quanh con người, còn con người mới là trung tâm của vũ trụ, là chủ nhân, là thống lĩnh. Môi trường là cái để cho con người khai thác, tận dụng, phục vụ cho con người, thuộc về con người.

Đến nay, con người đã nhận thức không phải vậy. Cần bổ sung và điều chỉnh một cách căn bản nhận thức về vấn đề này.

Môi trường là điều kiện không thể thay thế của sự sống. Đó là không gian sinh tồn, nơi để con người (và muôn loài) sinh sống. Làm hỏng nó thì sự sống sẽ kết thúc. Từ môi trường ấy có nguồn năng lượng khổng lồ và sẽ là vô tận nếu như biết gìn giữ. Môi trường tự nhiên là người mẹ thiêng liêng của con người, từ trong đó con người được sinh ra, tồn tại, sống, trải nghiệm và phát triển.

Trước kia đã có những nhà văn hóa từng bị sai lầm khi cho rằng: đứa con (tức con người) phải tách hẳn ra khỏi mẹ, thoát ra khỏi tự nhiên để thành người. Nhưng dần dần người ta phải điều chỉnh rằng: đứa con ấy nhất thiết phải gắn bó, trung thành với mẹ, kính trọng mẹ, yêu thương mẹ, để từ đó mà thành người nhân bản. Không kính trọng mẹ, phản bội mẹ tự nhiên, con người sẽ trở về với hoang dã, chơi vơi, bệnh tật, tai họa, không thể tồn tại.

Người Ấn Độ, với minh triết Phương Đông, từ nhiều nghìn năm trước đã cho rằng con người chỉ là một thành tố bình đẳng trong vũ trụ, phải biết tương thân, tương ái, tương kính với các thành tố khác trong thế giới tự nhiên. Có như vậy con người mới có hạnh phúc và không tội lỗi.

Trong lịch sử của nhiều quốc gia đã từng có một số vùng đất trước kia đã một thời phát triển rực rỡ, rồi bỗng nhiên “biến mất”, không thấy ai nhắc đến nữa, không thấy “tăm hơi” đâu nữa, sau đó mấy trăm năm, mấy ngàn năm, khi khai quật khảo cổ học người ta đã phát hiện ra dấu vết của thời kỳ hưng thịnh ấy và thực hiện bảo tồn, trùng tu, tái hiện.

Hầu hết những trường hợp như thế là do vấn đề môi trường gây nên. Chỉ có một số ít là do chiến tranh.

Và ngày nay, môi trường sống của nhân loại đang có những nguy cơ rất khủng khiếp, chưa từng có trong lịch sử của trái đất. Vì vậy, môi trường cũng là câu chuyện còn tiếp tục hay kết thúc nền văn minh của loài người trên trái đất.

Vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã có những nơi trên thế giới dân cư sống cạnh bờ biển, bỗng một ngày nhiều người bị bệnh rất hiểm nghèo, đưa đến bệnh viện không cứu chữa được. Họ chết. Lúc đầu không ai biết lý do vì sao. Sau đó kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho biết, bệnh ấy là do vùng biển bị ô nhiễm bởi kim loại nặng, chuyển qua thực phẩm bẩn sang người, dẫn đến hậu quả chết người như vừa nói.

Mấy thập kỷ qua, nhiều viện nghiên cứu và rất nhiều nhà khoa học trên thế giới đã liên tục khẩn thiết cảnh báo và kêu gọi toàn nhân loại phải bảo vệ tầng ô zôn khí quyển, để tránh một tai họa khủng khiếp đối với con người và muôn loài trên trái đất. Các nhà nghiên cứu về năng lượng sinh học thì cho rằng “Mẹ đất” đang kêu gào thống thiết phải giải cứu bởi sự tàn phá của con người.

Nhiều nước, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa đã không tránh khỏi việc ô nhiễm nghiêm trọng môi trường. Phải trả giá quá đắt để khắc phục hậu quả, kể cả những hậu quả rất khủng khiếp, nhất là sự ô nhiễm của hóa chất, kim loại nặng và chất phóng xạ hạt nhân. Thậm chí nhiều thế hệ phải gánh chịu các di chứng của tai họa ấy một cách lâu dài.

Vậy mà, những nước đi sau rất nhiều trường hợp cũng không tránh được, vẫn lặp lại theo vết xe đổ ấy, vì sự khó khăn hoặc cám dỗ của đồng tiền, cộng với lòng tham ích kỷ của con người.

Hiện nay, tại các nước phát triển, hàng năm có khoảng 7 triệu người chết do ô nhiễm môi trường.

Tình hình trên do những nguyên nhân rất đáng lưu ý: Nhận thức của các cấp lãnh đạo, quản lý và của cộng đồng chưa thấy hết mức độ nguy hiểm và tính chất nghiêm trọng của vấn đề, tư duy thiển cận, thấy cái trước mắt, không thấy cái lâu dài, thấy một mặt mà không nhìn được tổng thể trong qui hoạch và chiến lược phát triển. Do tư tưởng cục bộ, lao theo lợi nhuận bằng mọi giá, tính lợi cho ngành và đơn vị mình, còn hậu quả thế nào là việc người khác gánh chịu; thấy lợi về đồng tiền trước mắt mà không thấy hại lâu dài cho con người và xã hội.

Do vô trách nhiệm, kém trình độ và năng lực quản trị quốc gia, quản trị địa phương, thẩm định và quản lý thực hiện dự án. Do những qui định không chặt chẽ, không đầy đủ và việc thực hiện không nghiêm các điều luật về bảo vệ môi trường.

Do tham nhũng, hối lộ, “lợi ích nhóm” và các tha hóa tiêu cực khác. Các lý do nêu trên bao gồm ba nhóm là nhận thức kém cỏi, đạo đức suy đồi và năng lực quản trị quốc gia yếu kém.

Nước ta, các năm qua dù đã có không ít văn bản của Đảng và Nhà nước chủ trương phải quản lý môi trường, không để bị xâm hại, các cơ quan quản lý cũng đã có nhiều cố gắng nhưng tình hình ô nhiễm hoặc làm tổn hại môi trường đến nay thật đáng lo ngại.

Thực tế đang gián những hồi chuông kêu cứu khẩn cấp. Mức độ ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn nhiều nơi đã đến mức báo động. Rừng ở Tây Nguyên và nhiều nơi khác trên cả nước đã bị triệt phá tan hoang, mạch nước ngầm đã hạ xuống rất sâu và sắp không còn nguồn nước cho sự sống. Nhiều dòng sông xanh đã nhiễm bẩn. Nhiều hồ nước, mương rãnh đã bốc mùi hôi thối. Thời gian gần đây, tình hình gây ô nhiễm môi trường biển do chất thải công nghiệp đã ở mức báo động.

Nguy hiểm quá! Các loại hóa chất độc hại và kim loại nặng đang và sẽ đổ ra biển. Nếu không có giải pháp kịp thời và hữu hiệu thì đến lúc con người cũng sẽ bị hủy hoại vì môi trường bị ô nhiễm.

Tôi nghe giải thích rằng, có doanh nghiệp làm thép hứa nếu để ô nhiễm môi trường thì họ sẽ “giao nộp” nhà máy cho cơ quan nhà nước, tức là bị “tịch thu” nhà máy? Tôi không hiểu thu nhà máy ấy về để Nhà nước làm gì và làm sao! Lời hứa này chưa có gì bảo đảm đâu. Giống như những người làm thương mại đi bán nhà máy điện hạt nhân có hứa sẽ bảo đảm an toàn cho nhà máy.


Cũng có ý kiến cho rằng nếu muốn công nghiệp hóa đất nước thì không thể tránh được ô nhiểm môi trường, cứ phát triển mạnh công nghiệp đã, khi giàu lên, có nhiều tiền trong ngân sách thì giải quyết vấn đề môi trường. Lý lẽ ấy không thể chấp nhận được, dù bất cứ hoàn cảnh và điều kiện nào. Môi trường là nơi nhân dân sinh sống. Đằng sau và bên trong vấn đề môi trường là nhân dân, là con người - mục đích cao nhất và cũng là chủ nhân, là trung tâm của sự phát triển. Không ai vì phương tiện mà hy sinh mục đích.

Lại nữa: Còn có chương trình dự định xây nhiều nhà máy điện hạt nhân trên bờ biển Miền Trung. Đây là việc rất nguy hiểm, cần phải xem xét lại một cách thật nghiêm túc. Tôi rất mừng và rất hoan nghênh thái độ của Bộ Chính trị, Chính phủ và Trung ương gần đây đối với vấn đề này.

Hơn nửa thế kỷ qua là thời kỳ điện hạt nhân lên ngôi. Nửa thế kỷ đến là thời kỳ điện hạt nhân kết thúc. Hiện nay, thời kỳ kết thúc điện hạt nhân đã bắt đầu, trước nhất là ở nước Đức. Tại đó, người ta đã kết thúc hoạt động khoảng mười nhà máy và sắp xử lý nốt những nhà máy cuối cùng để trở lại một quốc gia không có điện hạt nhân.

Khi nhân loại bước vào giai đoạn kết thúc điện hạt nhân thì chẳng lẽ nước ta lại dự định bắt đầu(?). Một nhà máy điện hạt nhân như thế, khi xảy ra thảm họa nghiêm trọng thì việc ô nhiễm phóng xạ có thể lan rộng với bán kính khoảng một nghìn cây số. Nước ta hẹp và mật độ dân cư đông đúc. Một thảm họa như vậy sẽ đe dọa sinh mạng và để lại di chứng nghiêm trọng cho nhiều thế hệ tương lai của cả dân tộc Việt Nam. Các đối tác giúp ta về kỹ thuật có hứa rằng họ sẽ bảo đảm an toàn cao cho Việt Nam. Chúng ta hãy nhớ là họ đã từng để xảy ra thảm họa ngay trên Tổ quốc của chính họ và hiện nay đang là những người làm thương mại đi bán nhà máy cho ta.

Nước ta rất không nên mạo hiểm như vậy, dù người ta có cho không chứ chưa nói là mua với giá tiền quá đắt. Đây là chuyện an toàn tính mạng cho con người, sự tồn vong của cả một dân tộc. Nước từ nhà máy điện hạt nhân thải ra cũng sẽ làm thay đổi môi trường biển, gây hại cho các loài sinh vật và cuộc sống của nhân dân vùng biển.

Trong khi đó, nước ta nằm trên bờ Thái Bình Dương nhiều gió và phía nam bán cầu nhiều nắng - đó là những nguồn năng lượng mà nước Đức đã dùng để thay thế các nhà máy điện hạt nhân. Ấy là chưa kể đến những nguồn năng lượng khác (như dòng hải lưu hoặc nuôi trồng các loại tảo…). Nhân loại đã đến thời kỳ bắt buộc phải chuyển từ năng lượng hóa thạch và kể cả năng lượng nguyên tử có phóng xạ sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, sạch, không có phóng xạ, chuyển từ các hoạt động khai thác tự nhiên sang nền kinh tế sinh thái.

Việt Nam là một quốc gia có lợi thế lớn nhất thuộc về biển. Tiềm năng du lịch và hải sản rất lớn. Lớn hơn nữa là lợi ích về sinh thái. Nhưng lợi thế so sánh ấy đang và sẽ bị đánh mất, sẽ bị tiêu diệt bởi hai mũi “tiến công” quyết định là các nhà máy công nghiệp có chất thải kim loại, hóa chất và các nhà máy điện hạt nhân nếu chuẩn bị xây trên bờ biển. Chúng ta không thể, không nên lựa chọn một chiến lược mà vô tình tự tiêu diệt mình. Phải tính lại chiến lược và mô hình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phân công lao động quốc tế trên cơ sở lợi thế so sánh của quốc gia và tích cực chuyển sang kinh tế tri thức, kinh tế sinh thái, không nhất thiết cứ phải phát triển nhiều ngành công nghiệp nặng như cách tư duy cũ.

Chúng ta đang bước vào thời kỳ hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, mỗi quốc gia là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế thế giới, không cần cái gì cũng phải sản xuất trên đất nước ta (để gọi là tự chủ?). Tự chủ khác với tự cấp tự túc. Nước ta có một số lợi thế so sánh về nông nghiệp, về du lịch, về công nghệ thông tin - công nghiệp phần mềm nên tập trung trước tiên các thứ ấy.

Lựa chọn một số ngành công nghiệp phụ trợ không ô nhiễm hoặc ô nhiễm ở mức độ Việt Nam có thể kiểm soát và xử lý tốt, bố trí ở những nơi hợp lý, ở xa biển, không ảnh hưởng đến môi trường biển và du lịch, thẩm định và giám sát nghiêm ngặt việc giải quyết chất thải theo quy trình khép kín, không để đổ ra sông, biển. Coi trọng hiệu quả thiết thực (của chiến lược phát triển) hơn là to lớn, đồ sộ. Coi trọng sự phát triển bền vững gắn với hạnh phúc của con người hơn là tăng trưởng nhanh với bất kỳ mức độ nào, cái giá phải trả về môi trường.

Cũng có ý kiến cho rằng, cứ sợ ảnh hưởng môi trường thì làm sao mà công nghiệp hóa, muốn có “sắt thép” lại muốn có “tôm cá”, cái gì cũng muốn thì làm sao được, ô nhiễm thì ngăn chặn và xử lý(?). Không thể suy nghĩ chủ quan và đơn giản như thế được.

Thực tế mấy năm nay như đã thấy từ Bắc chí Nam có nhiều trường hợp môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng do chất thải của công nghiệp. Điều đó chứng tỏ việc ngăn chặn không hề đơn giản. Có trường hợp ô nhiễm đã nhiều tháng trời, huy động các cơ quan trong nước và kể cả nhờ nhiều chuyên gia quốc tế, tốn kém nhiều công sức và kinh phí, mãi mới xác định được tại cái gì và tại ai. Ấy là chưa nói có lý do nào khác mà nhiều trường hợp để kéo dài tình trạng ô nhiễm không được giải quyết (?). Việc quản lý cụ thể thường diễn ra ở địa phương, nhưng mỗi lần có ô nhiễm thì địa phương lại đề nghị Trung ương về xác định giúp nguyên nhân vì sao. Điều đó chứng tỏ năng lực quản lý lĩnh vực này của nước ta còn rất hạn chế. Đó là chưa kể trường hợp có “lợi ích nhóm” gây nên.

Cần phải tính lại, tính kỹ về hướng ưu tiên trong chiến lược công nghiệp hóa đất nước. Bảo vệ môi trường sinh thái là mục tiêu hàng đầu. Trên nền tảng sinh thái và văn hóa mà thực hiện công việc phát triển đất nước. Trừ một số cơ sở công nghiệp thật cần thiết phục vụ trực tiếp quốc phòng, còn lại, nói chung không phát triển công nghiệp bằng mọi giá. Hạn chế công nghiệp nặng. Quan tâm nông nghiệp công nghệ cao, du lịch, dịch vụ, công nghệ thông tin - công nghiệp phần mềm và một số công nghiệp nhẹ, công nghiệp phụ trợ sử dụng công nghệ cao, ít ô nhiễm môi trường, đặt ở nơi phù hợp, xa biển, không ảnh hưởng đến dân cư và du lịch.

Thực hiện nghiêm ngặt việc thẩm định tác động môi trường của các dự án; giám sát chặt chẽ việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh; minh bạch hóa công nghệ áp dụng, quy trình xử lý chất thải và tình trạng môi trường. Cơ sở nào không đáp ứng yêu cầu thì phạt nặng và đình chỉ hoạt động.

Ngoài các cơ quan của nhà nước cần có thêm các cơ quan thẩm định độc lập (của xã hội) để tham gia phản biện, tư vấn, thẩm định các nội dung về môi trường và bảo vệ môi trường. Bổ sung các quy định về trách nhiệm. Mỗi khi có việc xảy ra phải có người chịu trách nhiệm về vật chất, hành chính và pháp luật. Khuyến khích và thúc đẩy khẩn trương tiến tới xử lý tuần hoàn khép kín các chất thải của các nhà máy, không để thải ra bên ngoài mà nhà máy sẽ sử dụng lại sau khi đã tinh lọc, tái tạo. Không lấn chiếm các dòng sông, suối và các hồ nước. Giành không gian thỏa đáng để trồng cây xanh và tuyệt đối không phá hỏng các “lá phổi” đối với đô thị.

Rừng và cây xanh vừa là tự nhiên, vừa là văn hóa. Nói cách khác, nó quan trọng bằng sự tích hợp vai trò quan trọng của tự nhiên và của văn hóa.

Với tầm nhìn chiến lược và có trách nhiệm với tương lai dân tộc, để lại cho hậu thế không có gì quan trọng bằng con người và môi trường sống. Riêng góc độ tài chính cũng cần có tư duy tổng thể về hạch toán. “Kinh tế môi trường” đang và sẽ là một phạm trù ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Nếu không như vậy thì có khi nguồn lợi tài chính mà chúng ta nhìn thấy chỉ là “lãi giả”, hoàn toàn không đủ để bù lại cho việc xử lý hậu quả hủy hoại môi trường./.