VNN - Nếu chỉ đi làm rồi về đi ngủ, cuộc sống sẽ trở nên buồn chán, mệt mỏi, giống như con bò chỉ đi cày rồi về chuồng ngủ.
Những năm 80 khi là sinh viên ở châu Âu, tôi thường thèm thuồng đi qua cửa nhà hát lung linh dưới ánh đèn, nườm nượp người vào xem trong những bộ váy dạ hội, áo complet đẹp rực rỡ.
Chỉ dám nhìn thôi vì vé quá đắt và vì không có trang phục đẹp để vào nhà hát. Đến các công sở, tôi lại nghe các nhân viên bàn nhau chuyện đặt mua vé vào nhà hát từ hàng tháng trước, háo hức mỗi khi có ca sĩ hay chương trình opera mới nhưng phải ngượng ngùng tránh đi vì không biết gì về chủ đề họ đang nói.
Khi ấy tôi tự nhủ sau này có tiền, tôi dứt khoát phải mua vé đi xem cho biết.
Lúc ấy mỗi lần về nhà tôi rất thương cảm cho người Việt.Trên đường phố nhiều nước, con người đi lại với gương mặt bình an, thoải mái nói cười. Còn ở ta, dường như sự lam lũ vẫn còn đeo đẳng nhiều người.
Tôi tha thiết mong đến ngày đời sống khấm khá để được thấy lại nụ cười, vẻ bình an trên gương mặt người Việt và để các sinh hoạt văn hoá tinh thần không còn chỉ gói gọn trong vài bộ phim Nga chủ yếu với đề tài chiến tranh mà cũng không sao mua được vé.
Sau Đổi mới, đời sống kinh tế bắt đầu khá hơn, các chương trình hoà nhạc, nhạc kịch đã xuất hiện nhiều hơn ở Việt Nam và không chỉ giới hạn cho người trong ngành như trước. Nhưng bước vào nhà hát, tôi rất thất vọng vì sự ăn mặc, cư xử luộm thuộm của người Việt, tương phản với sự trang trọng của các khách nước ngoài.
Những người nghe hoà nhạc mặc nguyên quần áo đi làm hoặc đồ bộ nhàu nát, hút thuốc thả tàn xuống sàn nhà hát bóng lộn, thản nhiên trò chuyện trong khán phòng trước sự thờ ơ của các nhân viên. Trong khung cảnh đó khó có thể thưởng thức được âm nhạc, nghệ thuật đỉnh cao.
Đến các địa điểm du lịch, tôi thường gặp người Việt ở các trung tâm mua sắm nhưng rất hiếm khi gặp người Việt ở các bảo tàng, địa điểm văn hoá hoặc nếu có cũng chỉ đến chụp ảnh rồi đi.
Sự chi tiêu của người Việt cho đồ xa xỉ làm kinh ngạc nhiều người dân phương Tây, chứng tỏ kinh tế của VN đã tiến bộ rất nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên đời sống văn hoá tinh thần không phát triển tương ứng.
Nếu thời bao cấp, sách báo, phim ảnh vô cùng hiếm hoi nhưng đa phần dân chúng đều mong mỏi được tham gia, bất kể tuổi tác hay thu nhập. Một cuốn sách hay sẽ được mượn đến cũ nát và mọi người sôi nổi bàn tán về bộ phim mới ra ngoài rạp, so sánh nó với những cảnh đời xung quanh.
Sách báo, phim ảnh lúc ấy không chỉ để giải trí mà thực sự là món ăn tinh thần nhưng do số lượng hạn chế và đời sống vật chất qúa thấp nên không phát huy được tác dụng.
Trái lại, vào thời mở cửa, thu nhập của người dân tăng lên nhưng đến các rạp chiếu phim hay ra hàng sách, ta sẽ thấy chủ yếu là thanh niên đến với mục đích giải trí. Chính vì vậy, các kiệt tác văn học, những cuốn phim có nội dung nghiêm túc chiếm tỷ lệ rất nhỏ ở Việt Nam.
Thậm chí khi tôi hỏi lớp với cả trăm sinh viên hàng đầu Việt Nam, cũng chỉ có 2-3 em có đọc sách, còn lại là toàn đọc chuyện tranh.
Không ít bạn tỏ ra kinh ngạc khi thấy vợ chồng tôi vẫn đều đặn đến rạp xem phim và hỏi, tôi làm sao có thời gian? Thời gian của tôi không nhiều hơn các bạn, nhưng nếu chỉ đi làm rồi về đi ngủ tôi cảm thấy thiếu gì đó, thấy đời sống của mình tầm thường đi, trở nên buồn chán, mệt mỏi, như con bò chỉ đi cày rồi về chuồng ngủ.
Hơn nữa, vợ chồng con cái hàng ngày mỗi người mỗi việc, như xa lạ dần đi với nhau. Những giờ phút cùng đi xem phim, nghe nhạc... sẽ làm mọi người thấy đỡ nhàm chán, có thêm nhiều điều để chia sẻ và gần gũi nhau hơn.
Nhịp sống công nghiệp, sự phát triển của TV, Internet, các trò giải trí mới như game online giữ chân mọi người ở nhà, ngày càng xa rời với sinh hoạt văn hoá, tinh thần.
Phải chăng vì vậy, dù đời sống tăng lên rất nhiều nhưng đi trên đường, chúng ta vẫn chỉ nhìn thấy những gương mặt cau có, mệt mỏi, ra chỗ công cộng chỉ nghe thấy những lời than về đời sống đắt đỏ, bất an, nếu có vui vẻ cũng chỉ là những lời dô dô chúc tụng nhau chứ không nhìn thấy sự bình an, thanh thản?
Phải chăng vì người trẻ mải mê với học hành theo thành tích, người lớn lo chạy theo đời sống vật chất nên đã bỏ qua những hoạt động văn hoá, vốn cần thiết cho tinh thần như thức ăn cho thân thể?
Gần đây có một bài báo đã gây nhiều tranh luận của nhà báo Mỹ Linh, theo đó chị nói “Tôi nghĩ kiến thức nghề nghiệp chỉ chiếm 50%, phần còn lại là những tri thức khác nữa của nhân loại”. Chị thất vọng vì thấy du học sinh đáng yêu, năng động, biết kiếm tiền để phụ cha mẹ hoặc tích lũy cho bản thân nhưng ít khi chú ý đến các hoạt động tinh thần.
Và chị tự hỏi: “Phải chăng nỗi ám ảnh về cái nghèo và những năm tháng trí thức ít được coi trọng đã khiến nhiều bậc cha mẹ quên gói ghém trong hành trang du học của con tinh thần ấy”?
Bao giờ người Việt bớt lo lắng về vật chất để biết nuôi dưỡng tâm hồn?